Quyền khuynh triều đình Thuật_Hổ_Cao_Kỳ

Kim Tuyên Tông bàn bạc về việc nuôi ngựa [5], hỏi Cao Kỳ rằng: “Năm ngoái mua ngựa ở Tây Hạ, nay cần mua nữa hay không?” Cao Kỳ đáp: “Mộc Ba nuôi ngựa rất nhiều [6], còn ngựa của các bộ lạc vùng biên, cũng không ít đâu!” Tuyên Tông hỏi: “Tính số ngựa ở biên thùy, lúc cần đến thì được bao nhiêu?” Sau 3 ngày, Cao Kỳ đáp rằng: “Hà Nam trấn phòng có hơn 20 quân, tính ra được 2 vạn tinh kỵ, lúc cần cũng đủ dùng.”

Tháng 11 ÂL năm Trinh Hữu thứ 2 (1214), Tuyên Tông hỏi: “Quân khí tự tạo đều không thể dùng, đây là tội của ai?” Cao Kỳ đáp: “Quân khí tốt xấu ở bộ Binh, tiền tài bởi bộ Hộ, thợ khéo bởi bộ Công.” Tuyên Tông nói: “Sửa đi! Kẻo làm hỏng việc!”

Tuyên Tông hỏi tình hình nghĩa quân Hồng Áo của bọn Dương An Nhi, Cao Kỳ đáp rằng: “Giặc đang giữ chỗ hiểm, thần lệnh chủ tướng làm tường đá mà vây, thế không thể thoát, bắt trong sớm tối vậy.” Tuyên Tông nói: “Có thể đánh gấp, nếu bọn chúng dốc sức đột vây, quân ta ắt chịu tổn thương.”

Từ trước, Thái phủ giám thừa Du Mậu cho rằng uy quyền của Cao Kỳ quá trọng, trong ngoài e sợ, thường lấy làm lo lắng, nhân vào gặp hoàng đế, đuổi mọi người đi mà mật tấu, xin ức chế Cao Kỳ, Tuyên Tông không nghe. Mậu trở về thì không an lòng, bèn tiếp cận Cao Kỳ để tìm cách ly gián Cao Kỳ với hoàng đế. Nhưng Cao Kỳ biết Mậu từng mật tấu thì nghi ngờ, đem lời của Mậu trình bày với Tuyên Tông. Vì thế Mậu bị luận tội chết, nhưng Tuyên Tông giáng chiếu miễn chết, đánh 100 gậy, trừ danh ông ta. Đến nay triều đình đặt ra cái lệ: bề tôi trình tấu, phải có ít nhất 1 cận thần đứng hầu bên cạnh hoàng đế. Ứng phụng Hàn Lâm văn tự Hoàn Nhan Tố Lan từ Trung Đô bàn việc quân trở về, dâng thư cầu kiến, xin mật tấu. Tuyên Tông bèn gọi Tố Lan đến Cận thị cục, đưa giấy bút, bảo ông ta viết ra những gì muốn nói. Một lúc sau, Tuyên Tông gặp Tố Lan ở Ngự tiện điện, chỉ có Cận thị cục Trực trưởng Triệu Hòa Hòa đứng hầu. Tố Lan trình bày việc Nguyên soái phủ đòi trấn áp thủ lĩnh loạn quân là Bá Đức Văn Ca, trong khi triều đình lại xá miễn cho hắn ta, có tin đồn người chủ trương xá miễn là Cao Kỳ. Tuyên Tông hỏi chứng cứ, Tố Lan cho biết đã nhìn thấy thư tín Bá Đức Văn Ca gởi đến Vĩnh Thanh phó đề khống Lưu Ôn, thông báo rằng Trương Hy Hàn đến từ Nam Kinh (tức Biện Kinh), đem theo mệnh lệnh của triều đình, lấy Văn Ca chịu sự quản lý của Đại Danh hành tỉnh, thoát khỏi sự ước thúc của Trung Đô soái phủ; mà người khống chế triều đình, chẳng phải Cao Kỳ hay sao!? Tuyên Tông gật đầu; nhân đó Tố Lan nói rằng Cao Kỳ vốn không có công lao và danh vọng, chẳng qua sợ tội chết nên mới giết Hồ Sa Hổ, chứ không có kế sách gì. Tố Lan còn nói Cao Kỳ ghét hiền tài, kết bè đảng: năm ngoái học trò ở kinh đô là Phàn Tri Nhất đến gặp Cao Kỳ, cho rằng Triển quân không đáng tín, sợ họ gây loạn, nhưng Cao Kỳ lấy dao gậy đánh chết anh ta, từ ấy không còn ai dám nói đến hay dở của việc quân quốc nữa; Cao Kỳ sai đồng đảng là Di Lạt Tháp Bất Dã làm Vũ Ninh quân tiết độ sứ, sai hắn ta chiêu mộ Triển quân, nhưng chẳng nên việc gì, lại lấy hắn ta làm Vũ vệ quân sứ. Qua đó Tố Lan nhận định Cao Ký là tên giặc gây loạn kỷ cương, hãm hại trung lương, không hề có ý muốn giúp cho nước nhà yên ổn, đề nghị Tuyên Tông quyết đoán hành động, nhưng Tuyên Tông chỉ nói: “Trẫm từ từ suy nghĩ.” Tố Lan rời đi, Tuyên Tông còn răn rằng: “Cẩn thận chớ có tiết lộ.”

Tháng 10 ÂL năm thứ 4 (1216), đại quân Mông Cổ chiếm Đồng Quan, đóng trại ở khoảng Tung, Nhữ. Ngự sử đài hiến kế, Tuyên Tông giáng chiếu giao xuống Thượng thư tỉnh, Cao Kỳ đáp rằng: “Đài quan vốn không quen việc binh, phương lược phòng bị, chẳng phải hiểu biết của họ.” Rồi bỏ qua. Cao Kỳ chỉ muốn đem trọng binh đồn trú Nam Kinh để cố giữ, còn châu quận bị tàn phá thì không có ý cứu giúp. Thế mà Tuyên Tông lại bị mê hoặc, Cao Kỳ nói gì cũng nghe theo. Ít lâu sau, Cao Kỳ được tiến bái làm Thượng thư Hữu thừa tướng (tức là mất quyền khống chế Xu mật viện – cơ quan quân sự tối cao của nhà Kim), bèn tâu xin tăng cường các biện pháp giám sát quan dân, Tuyên Tông đồng ý. Sau đó Cao Kỳ đề nghị tu sửa thành trong của Nam Kinh, Tuyên Tông e sợ dân chúng phản đối, không đồng ý.

Từ trước, Vương Thế An hiến kế tấn công Hu Dị, Sở Châu, Xu mật viện tâu xin lấy hắn ta làm Chiêu phủ sứ, mưu đồ quấy nhiễu vùng Duyên, Hoài của Nam Tống, Tuyên Tông đồng ý. Đầu năm Hưng Định đầu tiên (1217), nghe tin người Tống xâm nhập biên thùy, Tuyên Tông có chút không hài lòng với Vương Thế An, Cao Kỳ nhân đó đề nghị đánh Tống để mở rộng bờ cõi; Tuyên Tông chần chừ, Cao Kỳ ra sức thuyết phục. Tháng 4 ÂL, nhà Kim sai Nguyên soái tả đô giám Ô Cổ Luận Khánh Thọ, Thiêm xu mật viện sự Hoàn Nhan Tái Bất đưa quân ra nam biên, ngay sau đó bãi binh, nhưng cũng chính thức tuyệt giao với nhà Tống. Sau đó, triều thần nhiều lần đề nghị nối lại bang giao với Nam Tống, Cao Kỳ tìm mọi cách gạt phắt đi, thậm chí đẩy quan viên lên tiếng ra khỏi triều đình, không cho phép mọi người nói khác. Năm thứ 2 (1218), Cao Kỳ lần nữa thuyết phục Tuyên Tông đắp thành trong của Biện Kinh, cho rằng như thế là đủ chống giặc.

Cao Kỳ từ khi được làm tể tướng, cậy sủng chuyên quyền, tự tung tự tác. Cao Kỳ với Cao Nhữ Lệ liên kết chặt chẽ: ông nắm quyền lực còn Nhữ Lệ nắm tài chính, đối với ai theo mình thì dùng, không theo mình thì bài xích. Đối với kẻ nào mà bọn Cao Kỳ không thể lấy quyền – tiền để áp chế, thì Cao Kỳ vờ tán dương trước mặt Tuyên Tông rằng kẻ ấy là kỳ tài, rồi đưa ra Hà Bắc, ngầm đặt người ấy vào tử địa. Từ sau khi không được kiêm chức ở Xu mật viện, Cao Kỳ luôn muốn giành lại binh quyền, bèn ra sức thuyết phục Tuyên Tông đánh Tống. Vì thế Cao Kỳ chẳng có lòng dạ nào khôi phục Hà Bắc, dồn hết tinh binh sang Hà Nam, cứ kéo dài thêm bao lâu thì được bấy lâu, bất chấp tình hình biên thùy nguy cấp, cũng không chịu lấy ra một tên lính nào. Bình chương chánh sự, Anh vương Hoàn Nhan Thủ Thuần muốn cáo giác tội trạng của Cao Kỳ, mật triệu Hữu tư Viên ngoại lang Vương A Lý, Tri án Bồ Tiên Thạch Lỗ Lạt, Lệnh sử Bồ Sát Hồ Lỗ cùng mưu tính. Thạch Lỗ Lạt, Hồ Lỗ tiết lộ với Thượng thư tỉnh đô sự Bộc Tán Nô Thất Bất, Nô Thất Bất thông báo cho Cao Kỳ. Hoàn Nhan Thủ Thuần sợ phe cánh của Cao Kỳ, không dám cáo giác nữa.